1999
Guynter Blobel (Đức) phát hiện protein mang những tín hiệu thiết yếu điều khiển sự chuyển vận và định vị của chúng trong tế bào. Một số bệnh di truyền của con người có nguyên nhân do sai lạc tín hiệu và cơ chế chuyển vận này.
1998
Robert F. Furchgott, Louis J. Ignaro và Ferid Murad, Mỹ, phát hiện oxid nitric như một phân tử báo hiệu trong hệ tim mạch, là một vũ khí chống nhiễm khuẩn và điều chỉnh huyết áp.
1997
Stanley B. Prusiner (Mỹ) phát hiện những hạt protein có tính chất lây truyền, gọi là prion, một tác nhân gây nhiễm trong một số bệnh não, như bệnh bò điên.
1996
Peter C. Doherty, Australia và Rolf M. Zinkernagel, Thụy Sĩ, phát hiện cách thức hệ miễn dịch nhận dạng các tế bào nhiễm bệnh.
1995
Edward B. Lewis và Eric F. Wieschaus, Mỹ và Christiane Nueslein- Volhard, Đức, phát hiện cách thức gen kiểm soát sự phát triển của bào thai người trong tử cung.
1994
Alfred G. Gilman và Martin Rodbell, Mỹ, phát hiện về G-protein và cách thực tế bào làm rối loạn các thông điệp vàthúc đẩy bệnh tật.
1993
Richard J. Robert, Anh, và Phillip A. Sharp, Mỹ, phát hiện về gen tách "split genes" làm thay đổi quan niệm khoa học về sự tiến hoá và những nghiên cứu mới về các bệnh di truyền, bao gồm một vài loại ung thư.
1992
Edwin G. Krebs, Mỹ, Edmond H. Fischer, Mỹ và Thụy Sĩ, những phát hiện về quá trình "phospho hoá protein nghịch đảo" giúp giải thích tại sao sự mất cân bằng ở tế bào lại gây bệnh.
1991
Neher và Bert Sakmanm, Đức, phát hiện ra các dòng ion đơn trong tế bào, làm rõ cơ chế gay một số bệnh bao gồm đái tháo và u nang xơ.
1990
Joseph E. Murray và E. Donnall Thomas, Mỹ, nghiên cứu về ghép cơ quan và tế bào điều trị bệnh cho người.
1989
J. Michael Bishop và Harold E. Varmus, Mỹ, phát hiện một loại gen giúp tìm hiểu quá trình phát triển ung thư.
1988
James W. Black, Anh, nghiên cứu về thuốc phong bế bêta dùng cho bệnh tim và thuốc điều trị léot dạ dày và Gertrude Elison và George H. Hitchings, Mỹ, nghiên cứu về thuốc chống AIDS, herpers, bệnh bạch cầu và sốt rét.
1987
Susumu Tonegawa, Nhật Bản, phát hiện cơ thể làm thế nào có khả nǎng sản xuất hàng nghìn kháng thể khác nhau để chống lại bệnh tật.
1986
Stanley Cohen, Mỹ và Rita Levi- Montalcini, Italya, nghiên cứu cơ chế điều chỉnh sự phát triển của tế bào và các cơ quan trong cơ thể.
1985
Michael S. Brown và Joseph L. Goldstein, Mỹ, nghiên cứu về cholesterol và các bệnh có liên quan với cholesterol.
1984
Niels Kaj Jerne, Thụy Sĩ và Georger Koehler, CHLB Đức và Cesar Milstein, Anh, các nghiên cứu về miễn dịch học.
1983
Barbara McClintock, Mỹ, nghiên cứu về di truyền học.
1982
John R. Vane, Anh, và Sune Bergstrom và Bengt Samuelsson, Thụy Điển, nghiên cứu về các hormon tuyến.
1981
David H. Hubel và Torsten Wiesel, Mỹ, phát hiện rằng kích thích thị giác ở trẻ nhỏ có quan hệ với thị lực trong tương lai; và Roger W. Sperry, Mỹ, trình bày một kiểu phân công các hoạt động não.
1980
George D. Snell và Baruj Benacerraf, Mỹ; và Jean Dausset, Pháp, công trình về các cấu trúc xác định di truyền trên bề mặt tế bào có tác dụng điều chỉnh các phản ứng miễn dịch.
1979
Alan M. Cormack, Mỹ; và Godfrey Newbold Hounsfield, Anh, triển khai kỹ thuật X-quang cắt lớp có gắn máy tính.
1978
Daniel Nathans và Hamilton O. Smith, Mỹ; và Werner Arber, Thụỵ Sĩ, nghiên cứu phương pháp tách vật liệu di truyền.
1977
Rosalyn Sussman Yalow, Andrew Vincent và Robert C.L. Guillemin, Mỹ, kỹ thuật mới xử lý hệ nội tiết và kiểm soát về mặt hoá học đối với các xúc cảm và bệnh thái của người.
1976
Giải được trao cho BARUCH S. BLUMBERG và D. CARLETON GAJDUSEK vì những khám phá liên quan đến những cơ chế mới về nguồn gốc và sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng.
1975
Giải được trao cho DAVID BALTIMORE, RENATO DULBECCO và HOWARD MARTIN TEMIN vì những khám phá liên quan đến tương tác giữa các virus khối u và chất liệu di truyền của tế bào.
1974
Giải được trao cho ALBERT CLAUDE, CHRISTIAN DE DUVE và GEORGE E. PALADE vì những khám phá liên quan đến tổchức cấu trúc và chức năng của tế bào.
1973
Giải được trao cho KARL VON FRISH, KONRAD LORENZ và NIKOLAAS TINBERGEN vì những khám phá liên quan đến tổ chức và suy luận các mô hình hành vi cá nhân và xã hội.
1972
Giải được trao cho GERALD M. EDELMAN và RODNEY R. PORTER vì những khám phá liên quan đến cấu trúc hóa học của kháng thể.
1971
Giải được trao cho EARL W.JR. SUTHERLAND vì những khám phá liên quan đến cơ chế hoạt động của các hormon.
1970
Giải được trao cho BERNARD KATZ, ULF VON EULER vì những khám phá liên quan đến các chất dẫn truyền dịch thể ở đầu mút dây thần kinh và các cơ chế lưu trữ, giải phóng và bất hoạt chúng.
1969
Giải được trao cho MAX DELBRUCK, ALFRED D. HERSHEY và SALVADOR E. LURIA vì những khám phá liên quan đến cơ chế sao nhân và cấu trúc gen của các virus.
1968
Giải được trao cho ROBERT W. HOLLEY, HAR GOBIND KHORANA và MARSHALL W. NIRENBERG vì sự diễn giải của họ về mã di truyền và chức năng của nó trong tổng hợp protein.
1967
Giải được trao cho RAGNAR GRANIT, HALDAN KEFFER HARTLINE và GEORGE WALD vì những khám phá liên quan đến những quá trình hoá học và sinh lý học cơ bản của thị giác trong mắt.
1966
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho PEYTON ROUS vì những khám phá của ông về virus gây khối u. Còn một nửa trao cho CHARLES BRENTON HUGGINS vì những khám phá liên quan đến điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng hormon.
1965
Giải được trao cho FRANCOIS JACOB, ANDRÉ WOLF và JACOUES MONOD vì những khám phá liên quan đến enzym điều khiển di truyền và tổng hợp virus.
1964
Giải được trao cho KONRAD BLOCH và FEODOR LYNES vì những khám phá liên quan đến cơ chế và điều hòa chuyểnhoá cholesterol và acid béo.
1963
Giải được trao cho JOHN CAREW ECCLES, ALLAN LLOY HODGKIN và ANDREW FIELDING HUXLEY vì những khám phá liên quan đến cơ chế ion tham gia kích thích và ức chế những tiểu phân trung tâm và ngoại vi của màng tế bào thần kinh.
1962
Giải được trao cho FRANCIS HARRY COMPTON CRICK, JAMES DEWEY WATSON và MAURICE HUGH FREDERICK WILKIN vì những khám phá liên quan đến cấu trúc phân tử của các acid nhân và ý nghĩa của chúng đối với sự truyền thông tin trong chất liệu sống.
1961
Giải được trao cho GEORG VON BÉKÉSY vì khám phá của ông về cơ chế vật lý của kích thích trong ốc tai.
1960
Giải được trao cho FRANK MACFARLANE BURNET và PETER BRIAN MEDAWAR vì những khám phá về dung nạp miễn dịchmắc phải.
1959
Giải được trao cho SEVERO OCHOA và ARTHUR KORNBERG vì khám phá của họ về cơ chế sinh tổng hợp acid ribonucleic và acid deoxiribonucleic.
1958
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho những khám phá của GEORGE WELLS BEADLE và EDWARD LAWRIE TATUM cho thấy gen hoạt động nhờ những hiện tượng hóa học xác định và nửa kia trao cho những khám phá của JOSHUA LEDERBERG về tái tổ hợp di truyền và tổ chức chất liệu di truyền của vi khuẩn.
1957
Giải được trao cho DANIEL BOVET vì khám phá về những hợp chất tổng hợp ức chế hoạt động của một số chất trong cơ thể, đặc biệt là tác dụng của chúng trên hệ tim mạch và cơ xương.
1956
Giải được trao cho ANDRÉ FRÉDÉRIC COURNAND, WERNER FORSSMANN và DICKINSON W. RICHARD vì những khám phávề thông tim và những thay đổi bệnh lý trong hệ tuần hoàn.
1955
Giải được trao cho AXEL HUGO THEODOR THEORELL vì những khám phá liên quan đến bản chất và mô hình hoạt động của các enzym oxi hóa.
1954
Giải được trao cho JOHN FRANKLIN ENDERS, THOMAS HUCKLE WELLER và FREDERICK CHAPMAN ROBBIN vì những khám phá về khả năng nuôi cấy virus bại liệt trên nhiều loại mô khác nhau.
1953
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho HANS ADOLF KREBS cho khám phá về chu trình acid citric, còn nửa kia trao cho FRITZ ALBERT LIPMANN vì khám phá về co-enzym A và tầm quan trọng của nó trong chuyển hóa trung gian.
1952
Giải được trao cho SELMAN ABRAHAM WAKSMAN vì khám phá về streptomycin, kháng sinh đầu tiên có tác dụng chống bệnh lao.
1951
Giải được trao cho MAX THEILER vì những khám phá về bệnh sốt vàng và cách chống lại bệnh này.
1950
Giải được trao cho EDWARD CALVIN KENDALL, TADEUS REICHSTEIN và PHILIP SHOWALTER HENCH vì những khám phá về hormon vỏ thượng thận, cấu trúc và tác dụng sinh học của chúng.
1949
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho WALTER RUDOLF HESS vì những khám phá về tổ chức chức năng của não trung gian là vùng điều phối hoạt động của các cơ quan nội tạng, còn nửa kia trao cho ANTONIO CAETANO DE ABREU FREIRE EGAS MONIZ vì những khám phá về giá trị của thủ thuật cắt thuỳ trước trán trong điều trị một số chứng bệnh loạn thần.
1948
Giải được trao cho PAUL HERMANN MULLER vì những khám phá về hiệu quả cao của DDT dùng làm độc chất tiếp xúc chống một số loại ropod.
1947
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho CARL FERDINAND CORI và GERTY THERESA CORI (nhũ danh RADNITZ) vì những khám phá về quá trình biến đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác, nửa kia trao cho BERNADO ALBERTO HOUSSAY vì những khám phá về vai trò của hormon thuỳ yên trước trong chuyển hóa đường.
1946
Giải được trao cho HERMANN JOSEPH MULLER vì những khám phá về tạo đột biến bằng phương pháp chiếu xạ.
1945
Giải được trao cho ALEXANDER FLEMING, ERNST BORIS CHAIN và HOWARD WATER FLOREY vì những khám phá về penicillin và tác dụng chữa khỏi nhiều bệnh nhiễm trùng của nó.
1944
Giải được trao cho JOSEPH ERLANGER và HERBERT SPENCER GASSER vì những khám phá về chức năng biệt hóa cao của các sợi thần kinh đơn.
1943
Giải thưởng được chia đôi, một nửa trao cho HENRIK CARL PETER DAM vì những khám phá về vitamin K, còn nửa kia trao cho EDWARD ADELBERT DOISY vì khám phá về bản chất hóa học của vitamin K.
1942-1940
Tiền thưởng được chia (1/3) cho Quỹ Chính và (2/3) cho Quỹ Đặc biệt của giải thưởng này.
1939
Giải được trao cho GERHARD DOMAGK vì những khám phá về tác dụng kháng khuẩn của prontosil. (Chính quyền nước ông từ chối giải thưởng, nhưng sau đó đã nhận bằng và huy chương).
1938
Giải được trao cho CORNEILLE JEAN FRANCOIS HEYMANS vì những khám phá về vai trò của xoang và các cơ chế động mạch trong điều hòa hô hấp.
1937
Giải được trao cho ALBERT SZENT-GYORGYI VON NAGYRAPOLT vì những khám phá liên quan đến các quá trình đốt cháy sinh học, với sự đề cập đặc biệt đến vitamin C và xúc tác của acid fumaric.
1936
Giải được trao cho HENRY HALLET DALE và OTTO LOWEI vì những khám phá liên quan đến dẫn truyền hoá học các xung thần kinh.
1935
Giải được trao cho HANS SPEMAN vì những khám phá về tác động của yếu tố tổ chức trong phát triển phôi.
1934
Giải được trao cho GEORGE HOYT WHIPPLE, GEORGE RICHARD MINOT và WILLIAM PARRY MURPHY vì những khám pháliên quan đến liệu pháp gan trong những ca thiếu máu.
1933
Giải được trao cho THOMAS HUNT MORGAN vì những khám phá liên quan đến vai trò của nhiễm sắc thể trong di truyền.
1932
Giải được trao cho CHARLES SCOTT SHERRINGTON và EDGAR DOUGLAS ADRIAN vì những khám phá về chức năng neuron.
1931
Giải được trao cho OTTO HEINRICH WARBURG vì những khám phá về bản chất và mô hình hoạt động của enzym hô hấp.
1930
Giải được trao cho KARL LANDSTEINER vì khám phá của ông về các nhóm máu người.
1929
Giải được chia đôi, một nửa trao cho CHRISTIAAN EIJKMAN vì khám phá của ông về vitamin chống viêm dây thần kinh, còn nửa kia trao cho FREDERICK GƠLAND HOPKINS vì những khám phá về các vitamin kích thích tăng trưởng.
1928
Giải được trao cho CHARLES JULES HENRI NICOLLE vì sự nghiệp của ông đối với bệnh thương hàn.
1927
Giải được trao cho JULIUS WAGNER-JAUREGG vì khám phá ra giá trị của tiêm chủng sốt rét trong điều trị liệt do sa súttrí tuệ.
1926
Giải được trao cho JOHANNES ANDREAS GRIB FIBIGER vì khám phá của ông về carcinoma Spiroptera.
1925
Tiền thưởng trong năm 1925 được nhập vào Quỹ đặc biệt của giải thưởng này.
1924
Giải được trao cho WILLEM EITHOVEN vì khám phá cơ chế điện tim.
1923
Giải được trao cho FREDERICK GRANT BANTING và JOHN JAMES RICHARD MACLEOD vì khám phá ra insulin.
1922
Giải được chia đều giữa ARCHIBALD VIVIIAN HILL vì khám phá liên quan đến sản sinh nhiệt trong cơ, và OTTO FRITZ MEYERHOF vì khám phá ra mối quan hệ cố định giữa tiêu thụ oxy và chuyển hóa acid lactic trong cơ.
1921
Tiền thưởng trong năm 1921 được nhập vào Quỹ đặc biệt của giải thưởng này.
1920
Giải được trao cho SCHACK AUGUST STEENBERGER KROCH vì tìm ra cơ chế điều hòa vận động mao mạch.
1919
Giải được trao cho JULES BORDET vì những khám phá liên quan đến miễn dịch.
1918-1915
Tiền thưởng trong năm 1918-1915 được nhập vào Quỹ đặc biệt của giải thưởng này.
1914
Giải được trao cho ROBERT Bárány vì công trình nghiên cứu sinh lý và bệnh lý của bộ máy tiền đình.
1913
Giải được trao cho CHARLES ROBERT RICHET vì những nghiên cứu của ông về hiện tượng phản vệ.
1912
Giải được trao cho ALEXIS CARREL vì sự nghiệp của ông trong khâu mạch máu, ghép mạch máu và ghép tạng.
1911
Giải được trao cho ALLVAR GULLSTRAND vì những nghiên cứu của ông về khúc xạ của mắt.
1910
Giải được trao cho ALBRECHT KOSSEL để thừa nhận những đóng góp của ông trong lĩnh vực hóa tế bào thông qua những công trình về protein, bao gồm các chất nucleic.
1909
Giải được trao cho EMIL THEODOR KOCHER vì những nghiên cứu của ông về sinh lý, bệnh lý và phẫu thuật tuyến giáp.
1908
Giải được trao cho ILYA ILYICH MECHNIKOV và PAUL EHRLICH để thừa nhận những công trình của họ về miễn dịch.
1907
Giải được trao cho CHARLES LOUIS ALPHONSE LAVERAN vì những công trình của ông về vai trò gây bệnh của các động vật nguyên sinh.
1906
Giải được trao cho CAMILLO GOLGI và SANTIAGO RAMON Y CAJAL vì những công trình của họ về khâu hệ thần kinh.
1905
Giải được trao cho ROBERT KOCH vì những nghiên cứu và khám phá về bệnh lao.
1904
Giải được trao cho IVAN PETROVICH PAVLOV để thừa nhận những công trình của ông về sinh lý tiêu hóa, qua đó đã thay đổi và nâng cao hiểu biết về những khía cạnh sống còn của con người.
1903
Giải được trao cho NIELS RYBERG FINSEN để thừa nhận những đóng góp của ông trong việc điều trị nhiều bệnh, đặc biệt là lupus thông thường, bằng cách chiếu sáng tập trung, nhờ đó ông đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học.
1902
Giải được trao cho RONALD ROSS vì những công trình của ông về sốt rét, nhờ đó ông đã chỉ ra cơ chế xâm nhập của bệnh vào cơ thể, đặt nền móng cho việc nghiên cứu thành công căn bệnh này cũng như những biện pháp chống lại bệnh.
1901
Giải được trao cho EMIL ADOLF VON BEHRING vì những công trình của ông về liệu pháp huyết thanh, đặc biệt là ứng dụng trong điều trị bệnh bạch hầu, nhờ đó ông đã mở ra con đường mới trong lĩnh vực y học và trao cho các thầythuốc một thứ vũ khí mới để chiến thắng bệnh tật và tử vong.